Thứ Tư, 2 tháng 11, 2011

Lần theo mê lộ có đường hầm của Hệ Thống Tiền Tệ Mỹ ( P.3 )

III- Tân hydra chào đời.

H- : Tai sao có Luật đó?
Đ-: Vì năm 1907 xẩy ra một cuộc “Kinh Khủng  Tài Chánh”  (a Financial Panic) nên năm 1908  T.T.Theodore Roosevelt (1901-1909), vị T.T. thứ26 của Mỹ, cho thành lập cái National Monetary Commission để chỉnh đốn vấn đề tài chánh. Chủ tịch của Commission đó là Ông Nghị Sĩ Nelson Aldrich (bên ngoại của David Rockefeller Sr.). Ông Aldrich dẫn cả commission đi tour sang Âu-châu để nghiên cứu trong vòng hai năm. Rồi khi trở về, Ông lập lên, một cách hòan tòan bí mật, một nhóm bị gọi là “The First Name Club” vì cấm triệt để không được nhắc tới Last Name để cho đầy tớ và người làm, dù có nghe trộm được cũng không biết là ai, để nói lại cho người ngoài và báo chí biết là có những ai. Nhóm đó gồm có một số người được chọn lọc rất cẩn thận trong giới tài chánh và ngân hàng. Trong số đó người sẽ đóng vai quan trọng nhất là Ông Paul Warburg (1868-1932) người gốc Đức di cư sang Mỹ năm 1904, được quốc tịch Mỹ năm 1911, và là thành viên của ngân hàng Kuhn, Loeb and Company Bankers ở New york (thuộc vào tài sản của Rothschild).

“First Name Club” được triệu tập đến một hòn đảo nhỏ bé, riêng biệt và vắng vẻ có tên là đảo Jekyll Island, ở Georgia, họp trong chín ngày liên tiếp, để viết một dự luật cải tổ hệ thống nhà bank và luật pháp tiền tệ (the banking and currency legislation) sẽ trình cho Congress.

image
G7 finance ministers and central bank governors

H-: Trong dự luật có cái gì là đặc biệt?
Đ-:  Có rất nhiều cái đặc biệt. Trước hết là cái tên: vì dân đã quá ghét. nên phải tránh cho kỳ được cụm-từ “Central Bank “ rồi phải làm sao cho dân tưởng rằng cơ quan này là của chánh phủ, do nhân viên chánh phủ điều khiển vì vậy mà có danh từ “Federal” và “Reserve“ (chớ không phải là Central Bank)  và có Governing Board mà ông chủ tịch là do T.T. bổ nhiệm, và trong đó có hai nhân viên chánh phủ, mà trong thực tế thì Governing Board không có điều khiển được chánh sách của cơ quan. Rồi phải dùng những danh từ mờ ám khó hiểu để che giấu thực ý: như trong Lời Mở Đầu (Preamble) của dự luật nói: Mục đích của luật là để cho FED có thể “cung cấp một thứ tiền co dãn” (to furnish an elastic currency) nghĩa là gì?

Trong thực tế nghĩa là tiền mà nhà bank đã có thì nhà bank có thể, tùy nghi, thổi phồng lên.  Rồi như danh từ “tái chiết khấu “(rediscounting) nghỉa là gì?  Trong thực tế nghĩa là: một kỹ thuật cho phép nhà bank dùng để tăng gia tiền hiện có trong quỹ của nó, bằng cách cho vay thêm mà không cần chờ cho tới khi các loan trước hết hạn. Kết quả là Luật cho phép một nhà bank trung ương tư (a private central bank) tạo ra tiền từ chỗ không có gì hết (create money out of nothing) rồi cho chánh phủ vay số tiền đó để lấy lời và kiểm soát sự cung cấp tiền cho quốc gia bằng cách bơm phòng nó lên hay hút bớt nó xuống tùy theo ý muốn (control the national money supply, expanding or contracting it at will.)
H-: Thế mà không có Ông Nghị sĩ hay Dân biểu nào thấy sao?
Đ-: Có chớ. một số thấy và la làng lên .Như ở Hạ Viện Dân Biểu Charles Lindbergh Sr. (bố của phi công trứ danh Lindbergh) nói:” Luật tạo ra FED là một cái tội pháp luật tệ hại nhứt của mọi thời đại  Hệ thống tài chánh đã bị lật lại cho một nhóm ngừơi chỉ có biết lợi dụng Hệ thống là của tư-nhân, được hướng dẫn về mục tiêu duy nhứt là lấy cho được những cái lợi tối đa từ việc xử dụng tiền của người khác “.

Và cũng còn một số dân biểu và nghị sĩ khác nữa la làng lên nhưng họ không đủ để đánh bại số dân biểu và nghị sĩ đã bị mua chuộc, đúng như lời của một người trong nhóm Rothschild ở London nói với một hội-viên của nhà bank ở New York ngày 25-6-1863 rằng: “Số nhỏ người hiểu cái hệ thống là gì, thì, hoặc là vì thấy có lợi cho mình, hoặc là vì đã tùy thuộc vào những ân huệ đang được hưởng, nên sẽ không có sự chống đối từ những hạng người đó. Còn nhóm đa số người không có đủ trí khôn để hiểu, thì sẽ chịu cái gánh nặng mà không than phiền”

Bởi vậy cho nên ngày 18-9-1913, dự luật được Hạ Viện chấp thuận với 287 phiếu thuận và 85 phiếu chống, rồi lên Thượng Viện thì ngày 19-12-1913, dự luật được chấp thuận với nhiều sửa đổi bằng 54 phiếu thuận và 34 phiếu chống.  Đến đây lại có một việc lạ nhứt chưa bao giờ xẩy ra trong lịch sử của HCQHK, là trong cái bản văn của dự luật ở Hạ Viện có cho tới 40 điểm mà Thượng Viên không đồng ý nên đã sửa lại.  Thì sau khi Thượng Viên biểu quyết, hai Viện phải ngồi chung lại để sữa lại sao cho cả hai bên đều đồng ý. Thế mà việc đó được thực hiện chỉ có trong một weekend. Cho nên ngày Thứ Hai 22-12-1913 dự luật được biểu quyết ở Hạ Viện với 282 phiếu thuận và 60 phiếu chống  rồi cùng ngày, sang Thượng Viện được chấp thuận luôn với 43 phiếu thuận và 23 phiếu chống.  Và T.T. Woodrow Wilson (1913-1921), vịT.T.thứ 28 của Mỹ ký thành Luật ngày hôm sau Thứ Ba 23-12-1913.

image
T.T. Woodrow Wilson

Tất cả những việc ấy xẩy ra một cách hết sức mau lẹ và trái ngược với tục lệ và truyền thống của Quốc Hội và của Chánh Phủ Mỹ là không bao giờ Lập Pháp Congress (Thượng  và Hạ Viện) thảo luận và biểu quyết một Dự Luật vào lúc gần Noel, để cho Congress “recess” (thường thường là kể từ 15, 17 Dec.) và các Nghị Sĩ và Dân Biểu về quê của mình ăn mừng Christmas và New Year, và không bao giờ Hành Pháp (Chánh Phủ) ký một Đạo Luật vào Noel để cho T.T. về nhà riêng hay “ranch” của mình ăn mừng Christmas và New Year. Thế mà kỳ này Thượng Viên hợp lại, thảo luận, và biểu quyết ngày Thứ Sáu 19 Dec. Rồi cả hai viện làm việc với nhau weekend 20-21 Dec, để ngày Thứ Hai 22-Dec cả hai viện, hợp lại,  thảo luận và biểu quyết dự luật,  và ngày Thứ Ba 23 Dec. T.T. ký thành Luật.

Dân Biểu Lindbergh nói ở Hạ Viện: “Dự luật này thành lập cái “trust” khổng lồ nhất trên thế giới. Khi mà T.T. ký cái dự luật này (thành Luật), thì cái chánh phủ vô hình của Mãnh Lực Tiền Tệ sẽ được hợp-pháp-hóa. Dân chúng có thể không biết chuyện đó ngay, nhưng mà rồi sự biết được chuyện chỉ được dời lại vài năm sau mà thôi”.  Trong lúc đó thì báo chí (đã ở trong tay của “Mãnh Lưc Tiền Tệ”) thì ca tụng hết lời. Báo New York Times viết bằng chữ lớn ở trang đầu: “Tổng Thống Wilson ký Dự Luật Tiền Tệ Sự phồn thịnh được tự do và sẽ giúp mọi giai câp.
H-: Thế là con hydra được khai sanh là đứa con hợp pháp của HCQHK để lớn lên với đất nước?
Đ-: Hay đúng hơn thì phải nói “để lớn lên với đứa em song thai”.
H-: Nói gì lạ vậy, đứa em song-thai nào?
Đ-: Khi nhóm của Nghị Sĩ Nelson Aldrich có Ông Paul Warburg chuẩn bị viết dự luật FED để trình cho Congress, họ đã tiên đóan rằng với sự áp dụng luật này thì CPLB sẽ mắc nợ FED càng ngày càng nhiều nên phải tím cách làm sao cho phép chánh phủ đánh thuế vào dân để có tiền trả nợ cho FED. thì họ kèm theo dự luật FED một Tu-Chỉnh Hiến Pháp (là the Sixteenth Amendment) cho phép CPLB đánh thuế income tax vào dân. Lúc ấy bản văn của Tu-Chỉnh chỉ có một trang giấy và nguyên Bộ Luật về thuế má chỉ có14 trang mà bây giờ thì nó dày đến 17,000 trang, cũng như nợ của chánh phủ do FED gây ra lớn lên từ số không cho tới bây giờ là $8.5 trillion.
H-: Bộ trước đó dân không phải đóng income tax cho CPLB sao?
Đ-: Không, trước 1913, dân chỉ đóng thuế income cho Tiểu Bang của mình mà thôi.
H-: Đã được hợp-pháp-hóa rồi, con hydra còn phá phách gì nữa không?
Đ-:  Nói là phá phách thì không hẳn là phá phách, nhưng khi được hợp-pháp-hóa rồi thì FED hoạt động tích cực hơn, nên gây tai nạn cho dân.
H-: Tai nạn gì?
Đ-: Cuộc Đại Khủng Hoảng (The Great Depression) năm 1930.
H-: Bằng cách nào?
Đ-: Bằng cách tạo ra tiền “out of nothing” qua trò ảo-thuật “loan”. Để khuyến khích dân vay tiền, nên FED hạ thấp bách phân lời (% interest) thì dân ùn ùn vay loan và loan để có tiền tiêu xài thả ga. Thì nhà bank thảy vào nền kinh tế quốc gia một số tiền khổng lồ, tạo ra một cuộc lạm phát (inflation). Rồi nói là để kềm hảm sự lạm phát, thì lại siết chặt việc cung cấp tiền, thu hồi các loan đả phát ra, không cho vay loan mới, thì dân thiếu nợ phải vội vàng bán nhà cửa ruộng đất để trả nợ, nên những người có liên hệ với “Mãnh Lực Tiền Tệ (Monetary Power) có tiền mua những bất động sản ấy với giá rẻ mạt. Còn con cháu những người thiếu nợ thì trở nên vô gia cư vô nghề nghiệp đi lang thang thất thểu ngoài đường như hồi Mỹ còn là 13 thuộc địa dưới thời các vua George II và vua George III, trước ngày Cách Mạng Mỹ (American Revolution) năm 1774.    Nhưng nhờ chánh sách “New Deal” của T.T.Franklin D.Roosevelt (1933-1945) vị T.T. thứ 32 của Mỹ, và việc lập lên cái FDIC (Federal Deposit Insurance Corporation) mà tình thế trở lại yên ổn. Giáo sư Milton Friedman, Nobel Prize về kinh tế, viết: “Nhứt định là FED đã gây ra cuộc Đại Khủng Hoảng vì thu rút lại một phần ba (1/3) số tiền đang lưu hành từ năm 1929 tới năm 1930”.

image
 T.T.Franklin D.Roosevelt

Còn Ông Louis T. McFadden Chủ tịch The House Banking and Currency Commttee, thì nói: “Cuộc khủng hoảng không phải là bất ngờ ngẫu nhiên mà là một việc được trù liệu rất cẩn thận … Những chủ nhà bank quốc tế tìm cách đem đến đây sự thất vọng để rồi họ có thể trở thành nhưng kẻ ra lệnh cho tất cả chúng ta”
H-: Thế rồi kể từ đó không có Ông T.T. nào dám đụng tới FED nữa?
Đ-: Có chớ, T.T. John F. Kennedy, (1961-1963) vị T.T. thứ 35 của Mỹ. Ngày 4-6-1963 T.T. Kennedy ký một Hành Pháp Lệnh (an Executive Order số 11110) cho phép CPLB phát hành tiền mà không phải qua FED bằng cách cho phép Bộ Tài Chành The Treasury phát hành những giấy chứng nhận bạc đối với mọi thoi bạc, bạc, hay là mọi dollar dựa trên bản vị bạc của Bộ (the power to issue silver certificates against any silver bullion, silver or standard silver dollars in the Treasury)  Nghĩa là một khi Bộ Tài Chánh có trong kho một ounce bạc nào, thì Bộ có quyền phát hành ra một giấy bạc để lưuhành trong nền kinh tế. Như vậy T.T.Kennedy đã tung ra $4.3 tỷ dollars cho lưu hành. Thì FED bank của New York sẽ phá sản, vì dân chúng biết rằng các giấy chứng nhận bạc (silver certificates) của Chánh Phủ được bạc yểm trợ (backed by silver) chớ giấy bạc của FED (Federal Reserve Notes) không có cái gì yểm trợ hết. Lệnh số 11110 nói trên còn giúp chánh phủ trả hết nợ của mình mà không phải qua FED để trả tiền lời, do FED tạo ra tiền out of nothing. Tức là trên thực tế Lệnh sô 11110 cho CPLB quyền tạo ra tiền của mình có bạc yểm trợ, đúng theo Điều I, Phần 8 của Hiến Pháp Hoa Kỳ.
Năm tháng sau, ngày 22-11-1963, T.T.Kennedy bị tên Lee Harvey Oswald ám sát và tên này hai ngày sau bị Jack Ruby (Rubenstein) giết chết trong Dallas Police Station.
H-: Như thế thì phải chăng là một nhóm tài phiệt cai trị xứ này vì người ta hay nói: “Ai nắm được tiền là nắm được quyền” phải không?
Đ-: Tôi không dám trả lời là phải hay là không (yes or no) vì tôi không đọc được sách nào nói rõ là đã có một tòa án nào kết án một người nào trong giới Mãnh Lực Tiền Tệ (the Monetary Power) hay một vị nào trong nhóm những Nam Tước Trộm Cắp (the Robber Barons) về tội dùng tiền của mình mua được quyền thế.  Cho nên tôi xin để cho quý bạn đọc mỗi người kết luận theo ý kiến của mình.

Tôi chỉ xin phép nhắc lại lời nói của Ông Nathan Rothschild hồi năm 1838: “Để cho tôi phát hành và kiểm soát tiền của một quốc gia, thì tôi cóc cần biết ai viết luật pháp”, và tôi cũng xin phép nhắc lại số phận của những vị Tổng Thống đã có gan dám chặt đầu con hydra tiền tệ: T.T.Andrew Jackson bị mưu sát, T.T.Abraham Lincoln và T.T.John F.Kennedy bị ám sát.           

Tài liệu được tham khảo:

The Web of Debt by Ellen Hodgson Brown, nxb Third Millennium, Baton Rouge, 2007
http://www.webofdebt.com
The Secrets of the Federal Reserve by Eustace Mullins nxb Bankers Research Institute Staunton, 1993
Modern Money Mechanics published by the Federal Reserve Bank of Chicago, now out of print:http://landru.i-link-2.net       
The Federal Reserve is a privately owned corporation by Thomas D. Schauf. 11-28-98 inhttp://www.apfn.org/                                           

Tác giả bài viết: B.S. Nguyễn Lưu Viên

Lần theo mê lộ có đường hầm của Hệ Thống Tiền Tệ Mỹ ( P.2 )

image
 II- Một chút lịch sử.

H-: Từ đâu, tại sao, và từ hồi nào mới có cái quái thai đó?
Đ-: Anh nói là “quái thai” thì cũng đúng, nhưng học giả Mỹ thường ví FED như một con “Hydra”.  Theo từ-điển Hydra là một con rắn có chín đầu (trong thần thoại) hể chặt đầu này thì nó mọc đầu khác, và nó có nhiều cái vòi (tentacles) rất dài để bắt mồi từ xa.  FED (con hydra dưới hình thức hiện tại) sanh ra nhờ cái Federal Reserve Act năm 1913 do Tổng Thống Woodrow Wilson ký (về sau ông hối tiếc). Còn từ đâu và tại sao có nó, thì phải xem lại hết cái lịch sử của HCQHK vì trong dĩ vãng nó cũng đã bị chặt đầu nhiều lần, mỗi lần lại sống lại với một tên khác.
H-: Anh có thể tóm tắt cho chúng tôi biết một chút không?
Đ-: Tôi sẽ cố gắng tóm lược tối đa một câu chuyện dài mấy thế kỷ và chiếm vài trăm trang trong mỗi sách nói đến chuyện ấy mà tôi có dịp đọc.

Ở Trung học chúng ta học trong sách rằng HCQHK hồi xưa là 13 thuộc địa của Anh-quốc.Đến năm 1774, để phản đối việc mẫu-quốc Anh đánh thuế vào trà (tea tax) một buổi tiệc trà được tổ chức ở Boston (Boston Tea Party). Trong dịp đó một số người Mỹ giả làm người Da-đỏ nhảy lên tàu chở trà và vất các thùng trà xuống biển. Bị chánh quyền cai trị đàn áp, những đòan dân quân được thành lập để chống trả lại, và Ông Benjamin Franklin triệu tập một Hội Nghị gọi là Congress ở Philadelphia để đưa ra “Bản Tuyên Ngôn Quyền Của Người Mỹ Có Đóng Thuế” (Delaration des Droits du Contribuable Americain) năm 1774. Sau đó, với sự chiến thắng của đoàn dân quân của Massachusetts, Congress cho ra Bản Tuyên Ngôn Độc Lâp (Déclaration d’Indépendance ngày 4-7-1776.) Rồi dưới sự chỉ huy của Tướng George Washington, quân Mỹ đánh thắng quân Anh dưới quyền Tướng Cornallis ở Georgetown năm 1781, và theo Hòa Ước Versailles năm 1785 Anh-Quốc công nhận cho HCQHK độc lập.

Nhưng sau này một số học giả, sau khi đọc kỹ lại những tác phẩm của chính ông Benjamin Franklin viết hồi thời ấy, mới thấy là sự thật phức tạp hơn nhiều.

image
Colonial Scrip

1-Vì không có tiền vàng hay bạc, nên kể từ năm 1691, các thuộc địa của Anh trên đất  Mỹ phát hành tiền giấy gọi là “Colonial Scrip” để trả lương cho công chức và để cho dân xài trong việc mua bán trao đổi hàng hóa trả tiền công v.v. Mà người chủ nhà in lại chính là Ông Benjamin Franklin, người làm việc cho dân, vì dân, không tìm cái lời cái lợi trong việc in giấy bạc nên chỉ phát hành đúng theo nhu cầu, cần bao nhiêu thì phát hành bấy nhiêu, nên không cần lấy thuế của dân để chánh phủ có tiền, mà không tạo ra sự lạm phát (inflation) hay sự kém phát (deflation) nên giá vật và giá công (product and service) vẫn được đều hòa và thăng bằng,  nhờ vậy mà các thuộc địa trở nên rất phồn thịnh, không có thất nghiệp, không có ăn mày, trong lúc mà ở London của mẫu-quốc ngoài đường có đầy ăn mày và người đi lang thang lêu lổng (The streets are covered with  beggars and tramps). Thì các chủ nhà bank Anh (the British bankers) lobby triều đình, nên năm 1751, vua George II ra lệnh cấm các thuộc địa  phát hành tiền giấy, mà phải dùng tiền “coins” của mẩu-quốc (do các nhà bank Anh đã hợp thành một thể dưới tên là Bank of England phát hành).  Vua George III kế vị vua cha từ năm 1752 giữ nguyên lệnh ấy. Thì các thuộc địa bị ảnh hưởng tai hại. Vì thiếu tiền coins (do mẩu quốc siết để tạo sự kém phát deflation), người làm ruộng hay trồng tỉa không có đủ tiền mướn người làm nên lúa không ai gặt, trái không ai hái. Người có hãng xưởng không đủ tiền mướn thợ, hàng hóa không được sản xuất. Cả dân trong một vùng đất rộng lớn của 13 thuộc địa bị nghèo đói không gia đình nào không bị ảnh hưởng, nên họ đứng lên chống đối chánh quyền và đó là nguyên do sâu xa của cuộc Cách Mạng Mỹ năm 1774. Cái”Boston Tea Party” chỉ là giọt nước làm tràn cái bình.

 image

2- Việc đầu tiên Congress làm là phát hành tiền giấy được gọi là “the Continental” dưới hình thức IOU (I owe you.)  nghĩa là giấy nợ mà Chánh Phủ Cách Mạng cam kết sẽ trả lại bằng tiền coins (vàng hay bạc) sau này. Lối chừng 200 triệu dollars dưới hình thức “continental scrip” được phát hành để chi phí cho cuộc chiến giành độc lập. Thì mẫu quốc phản ứng bằng cách in tiền giả để đổ ào ạt vào thị trường các thuộc địa, gây ra môt cuộc đại-lạm-phát, làm cho đến ngày độc lập tiền “the Continental” hầu như không còn giá trị gì hết. Thế là mẫu-quốc thua trên chiến trường, nhưng thắng trên mặt trận kinh tế (dính liền với tài chánh).

image image
continental scrip

3- Vì thấy tiền Continental gần như không còn giá trị, nên các nhà “Quốc Phụ Lập Quốc (the Founding Fathers), không còn tin tưởng nơi giấy bạc, nên trong Hiến Pháp được viết ra, các ngài không nói tới tiền giấy mà ghi rằng Congress có quyền “coin money” (thay vì “create money”) và có quyền vay tiền dựa trên uy tín của chánh phủ (“and to borrow money on the credit of the United States). Thì các nhà bank của mẫu-quốc Anh cũ, là các ngân hàng Anh quốc tư nhân; xâm nhập vào HCQHK tạo dựng US Bank theo mẫu của England Bank. Mà England Bank từ thời thành lập cho đến ngày hôm nay là do các nhóm tài phiệt tư nhân gốc gác Hòa-Lan (Amsterdam) nắm và chính các nhóm này xâm nhập vào hệ thống US Bank, khai thác lỗ hở to tát đó (the enormous loophole) mà nói rằng chiếu theo Hiến Pháp chánh phủ chỉ có quyền phát hành coins, và nhà bank có quyền phát hành tiền giấy. Vì tiền coins thì cồng kềng và quá nặng khi cần tới nhiều, nên nhà bank in giấy cam két sẽ trả lại đúng số coins (bằng vàng hay bạc) ghi trên giấy, thì dân chấp nhận coi những giấy ấy như là tiền.

4- Rồi với thời gian qua, các nhà bank để ý rằng rất ít người trở lại nhà bank để đòi lấy lại đồng tiền coins. Trung bình hằng năm chỉ có độ 10% người làm việc đó, còn 90% người còn lại thì không bao giờ thấy đến đòi lấy lại tiền coins. Thì nhà bank nghĩ rằng mình có thể phát hành thêm 90% nữa mà không sao. Đó là nguồn gốc của cái gọi là “fractional reserve” dẫn tới việc phát hành tiền ma.

5- Tổng Thống Thomas Jefferson (1801-1809) vị T.T. thứ ba của Mỹ thấy cái nguy hại cho đất nước và gọi liên đòan các nhà bank (the banking cartel) là ”một con quái vật ăn thịt ngưởi có cái đầu của con hydra” và Ông nói rằng “Nếu dân Mỹ để cho nhà bank kiểm soát việc phát hành tiền tệ của mình, thì trước hết bằng sự lạm phát (inflation)  rồi bằng sự kém phát (deflation) các nhà bank và các công ty (corrporations) sẽ phát triển và tước đoạt hết tài sản của dân, thì con cháu chúng ta sẽ thức dậy vô gia-cư, trên cái lục địa mà cha mẹ của chúng đã chiếm được.”  Nên năm 1811 Congress không chấp nhận tái bản cho đặc quyền (renew the charter) cho First U.S.Bank.  Thì chiến tranh với Anh quốc (the War of 1812) bùng nổ. Chiến tranh đưa quốc gia đến sự lạm phát (inflation) và nợ nần (debt). Vì những lý do đó, Tổng Thống James Madison (1809-1817) vị T.T. thứ tư của Mỹ, phải ký một đặc quyền 20 năm (a twenty year charter) cho Second Bank of The United States vào năm 1816.

6- Tổng Thống Andrew Jacksaon (1829-1837) vị T.T. thứ 7 của Mỹ veto dự luật của Congress cho phép tiếp tục ban đặc quyền cho Second Bank of the United States. Trong bản veto Ông viết:” Không có cái gì nguy hại cho sự tự do và độc lập của chúng ta hơn là khi mà hệ thống nhà bank nằm trong tay của người ngoại quốc. Kiểm soát tiền tệ của chúng ta, lấy tiền của dân ta, và bắt giữ cả ngàn công dân của chúng ta phải lệ thuộc, thì còn đáng sợ hơn và nguy hiểm hơn là một thủy binh hay một quân đội của địch”.

image

Nhưng Ông cũng biết cái veto chỉ là bước đầu của cuộc chiến với nhà bank nên Ông nói:  “ Con hydra của sự đồi bại mới bị chận lại chớ chưa chết”.  Ông ra lệnh cho Ông Tổng Trưởng Tài Chánh (Treasury Secretary) mới của Ông, chuyển hết tiền deposits của chánh phủ từ Second US Bank qua các nhà bank của Tiểu Bang (state banks) thì ông này từ chối không làm. Ông T.T. cách chức ông ấy, và bổ nhiệm một người khác Ông này cũng từ chối không làm thì T.T. Jackson bổ nhiệm người thứ ba, Ông này thi hành lệnh nên T.T. Jackson vui mứng mà nói: “ Tôi đã trói được con quái vật rồi” Nhưng ông chủ nhà Bank, lobby được Senate không chấp thuận người được Tổng Thống bổ nhiệm và gây ra một cuộc khủng hoảng kinh tế với việc siết chặt sự cung cấp tiền, để tạo ra một sự kém phát (deflation) bằng cách hồi (call in) các “loan” cũ, không cho thêm “loan”  mới, nên một sự hoảng hốt tài chánh (a financial panic) xẩy ra trong dân chúng, thì báo chí lại đổ tội vào đầu Tổng Thống Jackson. Nhưng may thay Ông Governor của Pennsylvania (là nơi có trụ sở của nhà bank) xuất hiện để ủng hộ T. T. Jackson và phê bình nhà bank rất gắt gao và kế hoạch làm lũng đọan kinh tế của nhà bank bị phơi bày trước công chúng.

Cho nên đến tháng 4- 1834 Hạ Viện (House of Representatives) với 134 phiếu thuận và 82 phiếu chống, đã hủy bỏ việc tái bản đặc quyền (rechartering) cho Second U.S.Bank.  Đến tháng 1- 1835 thì T.T. Jackson trả được hết các nợ của chánh phủ.  Rồi ngày 30-1- 1835, khi T.T. Jackson đến Capitol để dự tang lễ của Dân-biểu Warren R. Davis của South Carolina thì ông bị mưu  sát bởi một tên thợ sơn “điên”(?) núp trong rotunda cách Ông có sáu feet bắn hai phát đều trật.  Nhưng sau khi T.T. Jackson đóng cửa nhà bank trung ương (Central Bank) thì tiền giấy được dùng là những banknotes của của các nhà banks tư của các Tiểu Bang, hứa sẽ trả lại bằng vàng hay bạc chớ không phải là tiền của  quốc gia (national currency).

 image
House of Representatives

7- Sau T.T. Jackson, ông tổng thống dám đánh con hydra tiền tệ là T.T. Abraham Lincoln (1861-1865), vị T.T. thứ 16 của Mỹ. Liền sau khi Ông đắc cử và trước khi Ông nhậm chức thì Nội Chiến Nam-Bắc (The Civil War) bùng nổ (1860) vì vấn đề “Nô-lệ” (Slavery). Các nhà bank của vùng Đông (tức là thuộc về Union) đề nghị cho chánh phủ vay $150 triệu với bách phân lời quá nặng từ 24 tới 26%. T. T. Lincoln từ chối và quyết định chánh phủ sẽ in tiền lấy. Tiền in ra có tên chính thức là “United Note’ nhưng dân chúng quen gọi là “Greenback” vì phía sau in bằng mực màu xanh lá cây. Tiền được quan niệm không phải là một giấy nợ (IOU) với cam kết trả lại bằng vàng hay bạc, mà là một tờ giấy chứng nhận công lao cho xã hội.  Công lao sản xuất (product) từ lúa gạo, trái cây cho tới vải sồ và vật dụng, công lao dịch vụ (service) từ thợ, cai, đến giám đốc, công lao bảo vệ an ninh trật tự, và gìn giữ đất nước, từ lính cảnh sát đến lính và quan trong quân đội, công lao điều khiển bộ máy cai trị, từ thư ký đến giám đốc đến nguyên thủ quốc gia. Lãnh lương là lãnh giấy chứng nhận công lao, để mua thức ăn đồ dùng là trao giấy chứng nhận công lao của mình để nhận lấy món hàng được sản xuất với công lao tương đương của người bán.

Vì tiền được in ra vừa đúng nhu cầu của dân, cho dân, và vì dân, chớ không phải cho hay vì tư lợi nào hết, cũng như hồi thời Ông Benjamin Franklin lúc Hoa kỳ còn là 13 thuôc địa phồn thịnh, nên trong có bốn năm tại chức mà ngoài việc chiến thắng lọan Miền Nam được Anh giúp tiền, và việc giải phóng bốn triệu người nô lệ, T.T. Lincoln đã thực hiện cho nước Mỹ những công tác vĩ đại như:  xây dựng và võ trang một quân đội lớn nhứt thế giới lúc bấy giờ, biến Hoa-kỳ thành một nước kỹ-nghệ khổng lồ (industrial giant), kỹ nghệ thép (steel industry) được thành lập, một hệ thống hỏa-xa xuyên lục-địa được xây dựng, Bộ Canh Nông được thành lập để thúc đẩy việc chế tạo máy và dụng cụ làm ruộng rẻ tiền, một hệ thống đại học miễn phí được thành lập nhờ Land Grant College System, lập lên những  bộ máy hành chánh cho các vùng Miền Tây, tăng mức sản xuất lao động (labor productivity) lên từ 50 đến 75 %. Tất cả những việc ấy thực hiện được là nhờ có một việc rất giản dị là chính chánh phủ phát hành tiền. Tức là cái đầu của con hydra tiền tệ đã bị T.T.Lincoln chặt.

Nhưng đến ngày 14-4-1865, thì một kịch-sĩ tên là John Wilkes Booth ám sát T.T. Lincoln trong lúc Ông đang xem tuồng hát Our American Cousin trong rạp hát Ford’s Theatre ở Washington. Thế là con hydra lại có cơ mọc đầu lại. Và đầu nó mọc lại thật, vì dân vẫn thích có tiền vàng nên tiền greenback mất giá dần dần đối với đồng tiền dollar vàng. Thì các nhà bank phát hành banknotes bảo đảm trả lại bằng vàng. Dân chúng tin nên dùng những banknotes đó như tiền thật, cho tới năm 1913 thì một con hydra mới xuất hiện nhờ luật Federal Reserve Act 1913.  

Lần theo mê lộ có đường hầm của Hệ Thống Tiền Tệ Mỹ ( P.1 )

Lời nói đầu
Cả năm qua báo chí Mỹ thường hay nói tới việc mất giá của đồng dollar, tới việc mắc nợ của chánh phủ Mỹ, rồi hay nhắc tới Federal Reserve, và tới tên của Ông Greenspan. Tôi không có học ÉcoPo của Pháp, không có học MBA của Mỹ nên mù tịt. Nhưng vì tò mò muốn hiểu biết, nên tôi đã cố gắng tìm tòi, học hỏi đó đây. Thì mới thấy rằng vấn đề tiền tệ của Mỹ là cả một mê-lộ có đường hầm, (un vrai labyrinthe avec des souterrains) một con đường máng dện chằng chịt mà nếu đi không có bản chỉ dẫn thì sẽ dễ bị lạc.

Rồi tôi nghĩ rằng trong số độc giả của Y Tế Nguyệt San chắc cũng có một ít bạn đọc mù tịt như tôi, nhưng không có thì giờ để nghiên cứu đó đây như tôi, nên tôi viết bài này tóm lược và giản-dị -hóa tối đa một vấn đề vô cùng phức tạp đã kéo dài theo lịch sử của Hoa-kỳ, để giúp phần nào các bạn ấy hiểu sơ sơ vấn đề về đồng dollar là một thực thể mà mình phải đốí phó hằng ngày.  Tôi sẽ dùng phương pháp hỏi và đáp (H & Đ) để dẫn đường quý bạn đi trên mê lộ và trong đường hầm ấy.

Tôi xin lưu ý quý bạn: Vì trong bài có vài ba cụm-từ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần nên tôi sẽ viết tắt các cụm từ ấy như sau: FED là Federal Reserve, CPLB là Chánh Phủ Liên Bang, HCQHK là Hiệp Chủng Quốc Hoa-Kỳ USA  và T.T. là Tổng Thống.     

------------------------------------------------------
image
I- Tạo ra tiền (create money).

H-: Dollar là tiền chính thức của HCQHK. Vậy ở bên Mỹ cơ quan nào có quyền phát hành dollar?
Đ-: Câu trả lời tự nhiên và thông thường mà cũng hợp lý là Bộ Tài Chánh của CPLB. Nhưng trên thực tế thì không hẳn như vậy. Bộ Tài Chánh của CPLB chỉ có quyền phát hành “coins” nghĩa  là đúc (mint) các đồng tiền One Cent, Five Cents, One Dime, One Quarter, và một số đồng tiền One Dollar.
H-: Vậy thì cơ quan nào có quyền phát hành giấy xanh dollar?
Đ-: Chỉ có Federal Reserve (FED) mới có quyền phát hành giấy xanh dollar.
H-: Tôi thấy trên giấy xanh dollar nào cũng có hình của một ông Tổng Thống Mỹ, cũng có chữ ký tên của “Treasurer of the United States”, và của “Secretary of the Treasury” mà không phải do Department of Treasury của CPLB phát hành là gì ?
Đ-: Vâng, coi vậy mà không phải vậy. Trên giấy xanh dollar nào cũng có in hàng chữ “Federal Reserve Note” mà chữ note ở đây có nghĩa là “ a paper acknowledging a debt and promising payment; promissory note”. Tức là tờ giấy xanh dollar nào cũng là một tờ giấy nợ.
H-: Ai nợ ai?
Đ-: Chánh Phủ Liên Bang nợ FED.
H-: Sao lại có chuyện đó?
Đ-: Số tiên CPLB cần luôn luôn nhiều hơn số tiền thuế của dân đóng góp, nên CPLB phải mượn. Mượn ai? Mượn FED là cơ quan duy nhứt có quyền phát hành tiền dollar. Mượn bằng cách nào?   Bằng cách cho phép Bộ Tài Chánh (The Treasury Department) in giấy nợ dưới hình thức “Federal Bonds” (là giấy IOU     I Owe You) trong đó chánh phủ cam kết sẽ trả lại với tiền lời) (mà bách-phân lời % interest) là do FED. chủ nợ, quyết định). FED chấp nhận và in (thí dụ như một tỷ dollars $1 billion) đưa cho chánh phủ. Thế là chánh phủ (tức là quốc gia, là dân Mỹ) nợ FED một tỷ dollars với tiền lời. Rồi mỗi năm tiền nợ đó chồng chất lên nên  đến năm 1995 số tiền nợ là $5 trillion (1 trillion là 1 ngàn tỷ) và đến ngày 16-3-2006 là hơn $8,21 trillion.  
H-: FED là một cơ quan của Liên Bang, vậy CPLB mà nợ FED thì có khác gì là “Tôi nợ Tôi”.
Đ-: Khác, vì  FED  là một cơ quan mang tên là “Liên Bang” (Federal) nhưng không phải của Liên Bang. FED là một công-ty độc lập của tư-nhân (a corporation independent privately owned).  
H-: Privately owned thì ai own nó?
Đ-: Federal Reserve (FED) gồm có 12 cái Fed bank địa phương (twelve regional federal reserve banks) mỗi cái là sở-hữu của những nhà bank buôn bán tư thành viên của cái Fed địa phương đó Các Fed địa phương có trụ sở ở: 1- Boston, 2-New York, 3-Philadelphia, 4-Cleveland, 5-St Louis, 6-San Francisco, 7-Richmond, 8-Atlanta, 9-Chicago, 10- Minneapolis, 11- Kansas City và 12-Dallas.

image
Federal Reserve Building

Fed Bank của New York có đa số cổ phần (53% of shares). Mà trong Fed bank của New York, Citibank và J.P.Morgan Chase Co nắm đa số cổ phần. Citibank là của gia-đình Rockefeller và J.P. Morgan Chase Co là của gia-đình Morgan. Hai gia đình này và gia đình Carnegie với gia đình Rothschild là thành phấn quan trọng nhứt của một nhóm người mà học giả Mỹ gọi là “the Robber Barons” (những Nam-tước Trộm Cắp).
H-: Nhưng trong Ban Quản Trị (Board) của FED ở Washington có Ông Tổng Trưởng Tài Chánh (the Treasury Secretary) và Ông Giám Sát Ngân Khố (the Comptroller of Treasury) là nhân viên chánh phủ.
Đ-: Vâng, vì vậy mà trên các giấy xanh dollar có chữ ký tên của hai ông này. Và T.T.  Mỹ cũng bổ nhiệm (với sự chấp thuận của Senate) ông Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị (Chairman of The Governing Board) của FED, cho nên FED được coi như là một cơ-quan “gần như chính thức” (quasi-governmental). Hội Đồng này gồm có 7 người, với nhiệm kỳ là 14 năm, mà Tổng Thống chỉ có quyền thay thế một người mỗi hai năm.

 

Như vậy, thí dụ như có một ông T.T. muốn sữa đổi FED theo ý của ông,  thì trong nhiệm kỳ 4 năm của T. T, ông chỉ thay thế được có 2 người (vì ông chỉ có quyền thay thế một người mỗi 2 năm.) Thôi thì cho rằng ông  ấy là một ông T. T. tài ba lổi lạc, vượt qua được những khó khăn và những chống đối mà ông đã gây ra (vì quan niệm muốn sửa đổi FED), trong hàng ngũ dân-biểu và nghị sĩ của cả hai đảng, trong chính trường và trong media, để ông được đắc cử một nhiệm kỳ thứ hai, thì ông sẽ bổ nhiệm được 2 người nữa  trong Governing Board (nếu được the Senate chấp thuận) thì cho đến gần cuối nhiệm kỳ 2, ông mới đưa ra được một dự luật sửa đổi, mà chưa chắc dự luật ấy sẽ có được số phiếu cần thiết ở hai viện để trở thành một đạo luật trước khi ông phải rời khỏi Nhà Trắng.

Mặt khác ban Quản Trị (Board) không kiểm soát được cả 12 Fed bank địa phương và các Fed bank địa phương phải theo chánh sách của Fed Bank New York  nắm đa số cổ phần.  Vả lại FED kể từ khi thành lập cho tới nay, chưa bao giờ bị chánh phủ “audit”( soát xét ) vì năm 1975 dự luật (bill) H.R.4316 cho phép chánh phủ “audit” FED, được đưa ra Congress, nhưng dự luật không qua được vì không đủ phiếu.

image
Alan Greenspan

Hãy xem như ông Alan Greenspan đang làm giám đốc công ty (corporate director) cho J.P. Morgan, thì được T.T. Reagan bổ nhiệm năm 1987 làm Chủ Tịch của FED, giử chức đó gần 19 năm, đến năm 2006 dưới thời T.T.George W. Bush mới về hưu.  Nghĩa là đã làm Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị FED với bốn T.T. mà trong lúc tại chức ông không bao giờ có họp báo, không bao giờ cho phỏng vấn, tức là không có việc hỏi han chất vấn lôi thôi.
H-: Trở lại đồng dollar. Bây giờ tôi mới biết rằng CPLB chỉ có quyền đúc coins, còn quyền phát hành giấy xanh là của FED, mà FED thì bị các nhà bank tư nắm. Vậy trong tổng số tiền của Mỹ, tỷ-lệ của mỗi thứ tiền là bao nhiêu?
Đ-: Tiền coin của CPLB đúc chỉ là lối một phần ngàn tổng số tiền của Mỹ, cộng với tổng số tiền giấy xanh của FED phát hành, thành ra cái được gọi là “tiền sờ thấy được” (tangible currency) chỉ có lối 10% tổng số tiền được cung cấp (American Money Supply)
 image
H-: Sao kỳ vậy? Còn 90% kia là tiền gì ở đâu ra?
Đ-: Phần 90% còn lại là tiền ma (phantom money).
H-: Tiền ma là tiền gì?
Đ-:  Là tiền không có thật, là tiền được tạo ra từ chỗ không có gì hết (money created from nothing), do cái trò ảo-thuật cho vay (gọi là “loan”) tạo ra.
H-: Thật sự tôi không hiểu được.
Đ-: Thực ra thì cũng không có gì khó hiểu cho lắm. Trò ảo thuật tạo ra tiền từ con số không (create money out of nothing) dựa trên cái gọi là “fractional reserve banking” do đạo-luật tạo ra FED (Federal Reserve Act) cho phép. Theo đó thì khi mà nhà bank có trong kho của nó một số tiền X là tiền thật (hồi xưa là vàng, bây giờ là giấy xanh) được coi như là để dự-trữ (reserve), thì nó có quyền phát ra 10 X  (tức là có 9 X tiền ma, không có bảo đảm reserve).

image

Thí dụ như tôi gởi vào nhà bank trong checking account của tôi $ 10,000 thì nhà bank để số tiền đó trong kho của nó như reserve, và nó có quyền phát ra $100,000 (tức là trong đó có $ 90,000 là tiền ma, vì không có reserve bảo đảm) Cũng như thế, Anh B để vào bank trong saving account $ 20,000, thì nhà bank có quyền phát ra $200,000 (tức có $180,000 là tiền ma). Tổng cộng nhà bank có quyền phát ra $300,000 mà trong đó có $270.000 là tiền ma.  Rồi khi Anh C đến mượn nhà bank $300,000 (để mua nhà, sửa nhà hay làm gì khác) thì nhà bank cho ảnh mượn (dưới hình thức loan) $300,000 đó. Anh C sẽ trả cho nhà bank số tiền đó cộng với lời (x %) dưới hình thức mortgage hằng tháng, trong 15 hoặc 30 năm chẳng hạn, bằng tiền dollar thật, mà Anh C có được nhờ lương của Anh C, hoặc nhờ việc làm (như phòng mạch) của Anh. Tức là nhà bank, nhờ cái ảo-thuật của “loan” đã “create money out of nothing”.

Thí dụ trên là lấy cá nhân A, B, C làm mẫu, nên chỉ nói tới tiền với con số ngàn, nếu là nhà buôn, là nhà hàng, là hãng, là cơ sở sản xuất, thì tiền phải là tới số triệu. Mà cả HCQHK có hằng bao nhiêu triệu cá nhân, nhà buôn, hãng, xưởng v.v. cân tiền và phải vay tiền của nhà bank dưới hình thức “loan” thì không có gì lạ khi thấy rằng trong tổng số tiền cung cấp cho nền kinh tế Mỹ (american money supply) năm 2005 là $9.7 trillion trong đó tiền thật (tangible currency) chỉ có $ 1.4 trillion, còn $8.3 trillion là tiền ma.  Và sau này nguyên tắc đó cũng được áp dụng cho việc dùng credit card (Visa, Master Card, American Express v.v.) với một lải xụất (% interest) còn cao hơn gắp bội. 

Mời đọc tiếp Phần 2 tại đây.

Thứ Năm, 6 tháng 10, 2011

Các mẫu hình đồ thị phổ biến trong PTKT.

Xin lưu ý với các bạn ngay từ đầu, những mẫu hình dưới đây không phải chính xác tuyệt đối, trong thực tế phải kết hợp với nhiều chỉ báo khác như : xu hướng chung của thị trường, vĩ mô, tin tức riêng của cổ phiếu,... mới có thể ra quyết định mua bán chính xác.

Các mẫu hình không phải là cố định, mà sẽ luôn thay đổi theo quá trình vận động của thị trường. Vì thế để phán đoán chính xác các mẫu hình đòi hỏi nhà đầu tư phải có tư duy nhạy bén, luôn thay đổi để bắt kịp theo sự vận động liên tục của thị trường.

Sau đây mời các bạn hãy cùng tôi tham gia vào một buổi "học vẽ" ngoại khóa, thư giãn nhưng cũng mang đầy tính "nghệ thuật".

1. Mẫu hình tên lửa.

Mẫu hình này thường xuất hiện ở giai đoạn bắt đầu thời kỳ Uptrend, khi thị trường chung bắt đầu tăng mạnh. Thông thường mẫu hình này xuất hiện ở 1 cổ phiếu bị "làm giá", tức là có 1 nhóm các Nhà đầu cơ cùng nhau đẩy giá cổ phiếu lên. Giá cổ phiếu thường được đẩy lên ít nhất là 50% , thậm chí là 100% hay 200% tùy theo ý đồ của "đội lái".

Để phát hiện ra cổ phiếu sẽ đi theo hình mẫu tên lửa này ngay từ đầu là rất khó, thường phải dựa vào may mắn mới có thể mua trúng những cổ phiếu dạng này. Vì mẫu hình của một cổ phiếu được "làm giá" hoàn toàn được quyết định bởi "đội lái" nên không thể tiên đoán trước được.

Mẫu hình này làm cho lòng tham của con người tăng dần, khi lòng tham được đẩy lên cao cực đại thì rất dễ mua vào trúng đỉnh. Khi cổ phiếu bắt đầu được kéo lên, bạn đua lệnh nhưng không khớp. Sau vài phiên tăng trần, cổ phiếu điều chỉnh nhưng bạn không dám mua vào vì sợ mua vào đúng đỉnh. Tuy nhiên cổ phiếu vẫn tiếp tục tăng giá, bạn lại đua lệnh nhưng không khớp nổi... Hãy xem đồ thị của cổ phiếu IJC dưới đây:


2. Mẫu hình Vai - Đầu - Vai :

Mẫu hình này dùng để xác nhận cổ phiếu đã chuyển từ xu hướng tăng giá sang xu hướng giảm giá. Sở dĩ có tên gọi như vậy vì mẫu hình này mô phỏng theo hình dáng của con người, có 1 đầu và 2 vai. Mô hình này không đòi hỏi 2 vai phải cân bằng với nhau, quan trọng nhất là đường viền cổ ( neckline ), vì khi đường giá xuyên thủng qua đường viền cổ phía bên vai phải thì mô hình V-Đ-V chính thức được xác nhận.

Hãy xem đồ thị cổ phiếu REE:


3. Mẫu hình Hộp Darvas.

Đây là mẫu hình mô tả xu thế giao động của cổ phiếu trong ngắn hạn. Giá cổ phiếu giao động ở khoảng trên ngưỡng hỗ trợ và khoảng dưới ngưỡng kháng cự.

Mẫu hình này khá lý tưởng để lướt sóng ngắn : mua ở hỗ trợ và bán ở kháng cự. Nhưng cũng nên đề phòng xảy ra thua lỗ khi cổ phiếu đột ngột lao dốc phá ngưỡng hỗ trợ, cũng như gặp trường hợp trớ trêu khi vừa bán ra ở ngưỡng kháng cự thì cổ phiếu tiếp tục tăng giá mạnh.

Đôi điều cần chú ý khi gặp mẫu hình này:
- Nếu cổ phiếu vừa hoàn thành mẫu hình Tên lửa, chuyển sang mẫu hình Hộp thì tuyệt đối không nên mua vào nếu như bạn chưa có kinh nghiệm lướt sóng. Vì lúc này Đội lái đang xả hàng, khi xả xong thì giá cổ phiếu sẽ lao dốc không phanh.


- Nếu thị trường chung bắt đầu bước vào thời kỳ tăng giá, cổ phiếu bạn đang theo dõi chuyển động theo mẫu hình Hộp bỗng nhiên tăng vọt qua ngưỡng kháng cự + Volume tăng thì bạn nên nhanh chóng mua vào, 99% sẽ không bị thua lỗ.




Trên đây chỉ là 2 trường hợp phổ biến, để nghiên cứu sâu thêm về Lý thuyết hộp của Darvas, mời bạn tham khảo thêm cuốn sách của tác giả: Ấn vào đây hoặc tham khảo bài viết Nicolas Darvas.

4. Mẫu hình chiếc Tách và Tay cầm.

Đây là mẫu hình mà đồ thị giá của cổ phiếu có hình dạng giống một chiếc tách uống trà có tay cầm. Cổ phiếu thường có xu hướng tăng giá sau khi hoàn thành mẫu hình này.

Điểm quan trọng nhất của mẫu hình này là xác định đường thẳng nối 2 thành tách trái và phải, gọi nôm na là đường Thành tách. Khi đường giá hoàn thành mẫu hình tay cầm, vượt lên trên đường Thành tách thì ta nên mua vào ngay, khả năng đem về lợi nhuận là trên 80%.



 5. Các mẫu hình khác

 Mẫu hình cái nêm hướng xuống:

Mẫu hình 2 đáy:

Mẫu hình 2 đỉnh:

Thứ Năm, 22 tháng 9, 2011

Phân tích khối lượng với xu hướng của thị trường.

Ở bài trước chúng ta đã được biết đến vai trò của Khối lượng ( Volume ) ở vùng đáy và vùng đỉnh. Tôi có thể tóm tắt ngắn gọn lại rằng : tại vùng đáy Volume thường thấp đột biến so với trung bình, còn tại vùng đỉnh thì Volume thường cao đột biến so với trung bình. Hôm nay tôi sẽ đi sâu hơn nữa về vấn đề phân tích chỉ báo Volume đối với xu hướng của thị trường.

Khối lượng khớp lệnh ở từng giai đoạn của thị trường sẽ khác nhau, vì vậy muốn phân tích chính xác phải lấy  tham chiếu Volume tại thời điểm cần phân tích.
1. Khối lượng trung bình.
Chúng ta hãy xem xét khối lượng khớp lệnh trung bình trong 5 - 10 phiên. Lấy biểu đồ Vnindex hiện nay làm ví dụ:


- Khối lượng < 20 triệu : Thấp ( thường xuất hiện ở vùng đáy )
- Khối lượng 20 - 40 triệu : Trung bình
- Khối lượng 40 - 60 triệu : Cao
- Khối lượng > 60 triệu : Rất cao ( thường xuất hiện ở vùng đỉnh )

2. Phân tích khối lượng với xu hướng tăng giá của thị trường.

- Vnindex tăng nhẹ, khối lượng giao dịch không thay đổi nhiều ( tăng hay giảm nhẹ): người cầm tiền không muốn mua giá cao, người cầm cổ phiếu lưỡng lự không muốn bán giá thấp. Niềm tin về sự tăng giá của thị trường bị nghi ngờ, nếu tình trạng này nếu kéo dài thì người cầm cổ phiếu sẽ buộc phải bán giá thấp, Vnindex sẽ tiếp tục giảm điểm.


- Vnindex tăng nhẹ, khối lượng giao dịch tăng nhẹ theo: tâm lý NĐT đã được cải thiện, các lệnh bán đều được lệnh mua khớp tương ứng. Nhu cầu mua bán đều được thỏa mãn, niềm tin đang dần thay thế sự sợ hãi. Vnindex không giảm điểm nữa, nhưng chưa thể kết luận Vnindex đã vào sóng tăng hay chưa.


- Vnindex tăng mạnh, khối lượng giao dịch tăng mạnh ( đột biến ): Lực cầu rất mạnh, cung bao nhiêu lực cầu sẵn sàng mua vào bấy nhiêu. Niềm tin về sự hồi phục của thị trường lấn át hoàn toàn sự sợ hãi. Vindex chính thức bước vào sóng tăng, nếu sợ phải đua lệnh, hãy canh mua ở những phiên điều chỉnh !


Tuy nhiên phải đề phòng trường hợp thị trường đang ở giai đoạn cuối của chu kỳ Uptrend.


3. Phân tích khối lượng với xu hướng giảm giá của thị trường.

 - Vindex giảm nhẹ, khối lượng giao dịch giảm dần: người cầm tiền chỉ chịu mua giá thấp, người cầm cổ cũng không muốn bán giá thấp. Niềm tin về sự tăng giá của thị trường đã giảm sút, nỗi lo sợ đang dần tăng lên. Tình trạng này nếu kéo dài sẽ dẫn đến sự giảm giá mạnh của Vnindex.


 - Vnindex giảm nhẹ, khối lượng giao dịch tăng nhẹ: những người cầm cổ đã sẵn sàng bán giá thấp, nỗi sợ hãi đang lấn át niềm tin. Những người mua vào cổ phiếu đang hy vọng thị trường đã tới đáy, nói cách khác đây là hiện tượng bắt đáy. Hiện tượng này thường xảy ra ở các mốc tâm lý hoặc vùng hỗ trợ của Vnindex.
Hãy cẩn thận, thị trường chạm mốc này có thể hồi phục vài phiên nhưng một khi Vnindex phá mốc tâm lý sẽ xảy ra hiện tượng bán tháo.


- Vnindex giảm mạnh, khối lượng giao dịch tăng cao ( đột biến ): Người cầm cổ sẵn sàng bán ra bằng mọi giá để thoát ra khỏi thị trường. Nỗi lo sợ lấn át hoàn toàn niềm tin. Tuy nhiên việc Volume tăng cao đột biến chứng tỏ rằng người mua sẵn sàng mua vào cổ phiếu, bán bao nhiêu mua vào bấy nhiêu. Khi lực bán cạn kiệt là lúc thị trường chấm dứt giai đoạn sụt giảm, bước vào thời kỳ tích lũy.


4. Uptrend thật hay Uptrend đểu?
Mỗi một Uptrend dài đều có giai đoạn thị trường tạo đỉnh tạm thời, sau đó đi xuống để kiểm tra lại xem dòng tiền có bền vững hay không. Uptrend thật được hỗ trợ bởi dòng tiền mạnh, có vĩ mô ủng hộ, còn Uptrend đểu chỉ được hỗ trợ bởi dòng tiền đầu cơ, đánh nhanh rút nhanh.

- Nếu dòng tiền đổ vào thị trường lớn, mọi nhu cầu bán cổ phiếu chốt lời được đáp ứng hết. Thị trường dần hồi phục, lực mua mạnh đẩy Vnindex vượt qua đỉnh tạm thời vừa được thiết lập --> Thị trường tiếp tục xu hướng Uptrend.




- Nếu dòng tiền đổ vào thị trường yếu, lực cầu không đủ đáp ứng lượng cung cổ phiếu chốt lời. Thị trường không thể chinh phục đỉnh tạm thời vừa được thiết lập --> Thị trường kết thúc xu hướng Uptrend.


Để không bị thua lỗ trên thị trường chứng khoán, bạn phải biết bình tình xem xét liệu Vnindex có còn đi lên nữa không. Chúng ta sẵn sàng mua vào khi Vnindex mạnh mẽ vượt qua đỉnh cũ của nó, nhưng phải biết kiềm chế lòng tham khi Vnindex tăng điểm mạnh nhưng vẫn chưa vượt được đỉnh cũ. Mọi sự nóng vội sẽ phải trả giá bằng việc bị kẹp cổ phiếu ở mức giá cao, khi đó thua lỗ là không thể tránh khỏi!

Thứ Năm, 8 tháng 9, 2011

Đâu là đáy - Đâu là đỉnh ?

4.Dấu hiệu nhận biết vùng đáy và vùng đỉnh.

Mỗi một con sóng đều bắt đầu từ vùng đáy, rồi đi lên và kết thúc ở vùng đỉnh. Để xác định được chính xác đâu là đáy, đâu là đỉnh thì rất khó nhưng việc xác định Vùng đáy và Vùng đỉnh thì lại không hề khó chút nào.

Từ kết luận của phần 3, ta có thể suy ra rằng:
-Vùng đáy: là nơi mà Nỗi sợ hãi của NĐT lên cao nhất, Nhà cái mua vào Cổ phiếu.
-Vùng đỉnh: là nơi mà Niềm tin của NĐT lên cao nhất, Nhà cái bán ra Cổ phiếu.

Khi đi săn, để tìm ra được nơi ở của con thú thì người đi săn phải lần theo dấu chân của con thú đó. Bây giờ hãy coi Vnindex là một con thú, chúng ta - người đi săn sẽ phải lần tìm theo dấu chân của Vnindex. Vậy dấu chân của Vnindex nằm ở đâu? Dấu chân đó chính là Khối lượng ( Volume ).

-Vùng đáy có đặc điểm là Volume thấp, do các NĐT sợ hãi không dám mua vào chỉ muốn bán ra, Nhà cái đẩy mạnh mua vào.
-Vùng đỉnh có đặc điểm là Volume cao, do các NĐT hưng phấn với niềm tin mua là thắng, Nhà cái đẩy mạnh bán ra.

Để hiểu rõ mời các bạn theo dõi biểu đồ sau:


Kết luận: Để tránh việc mất tiền vào tay Nhà cái, chúng ta phải biết lần theo dấu chân để lại của Nhà cái thông qua Volume thể hiện trên biểu đồ.

"Chỉ có một cách duy nhất kiếm được tiền từ TTCK, trừ việc gặp may mắn đó là làm theo những gì Nhà cái làm."

 5.Một số công cụ kết hợp để xác định Vùng đáy - Vùng đỉnh.

- Ngưỡng Hỗ trợ và Kháng cự: mời các bạn xem lại minh họa ở phần 2.


- Đường MACD:
cắt từ dưới đi lên thể hiện xu hướng Uptrend, cắt từ trên xuống thể hiện xu hướng Downtrend


- Phân kỳ Âm và Phân kỳ dương:


6. Biểu đồ tâm lý.

Chắc hẳn bạn đã trải qua những sắc thái tâm lý như trong biểu đồ dưới đây trong "sự nghiệp Chứng khoán" của mình. Tôi cũng đã trải qua tâm lý giống hệt trong biểu đồ, đã có những lúc tuyệt vọng quá mà bán rẻ cổ phiếu tại vùng đáy, và đã có lúc hưng phấn quá mà tất tay mua vào tại vùng đỉnh. Đó đều là những bài học xương máu, phải trả bằng những giá rất đắt. Tuy nhiên, "ngã càng đau thì càng nhớ lâu", cũng nhờ vậy mà tâm lý trading của tôi cũng dần ổn định hơn, nhờ vậy mà các quyết định mua bán cũng trở nên chính xác hơn.

Bạn phải luôn ghi nhớ rằng:
"Mua bán Cổ phiếu phải dựa vào Lý trí, không bao giờ được mua bán theo Cảm tính + Cảm xúc."


7.Một số chỉ báo khác.
-Media, báo chí liên tục đăng các tin tức xấu, tỏ ra bi quan với TTCK thì đó là 1 dấu hiệu ở vùng đáy. Và ngược lại.
-Các cổ đông nội bộ của các doanh nghiệp niêm yết đăng kí mua vào lượng lớn cổ phiếu --> Báo hiệu giá cổ phiếu đang ở mức hấp dẫn. Và ngược lại.
-Khi lên sàn Chứng khoán, bạn thấy rằng chỉ có lèo tèo trên dưới 10 người ngồi, họ theo dõi bảng điện thì ít mà ngồi buôn chuyện với nhau thì nhiều  --> Chứng tỏ còn rất ít người quan tâm đến Chứng khoán và thị trường đang ở vùng đáy. 

Nguyên lý hoạt động của TTCK.

Chắc hẳn đến giờ phút này các bạn đã nắm rõ được hầu hết những kiến thức cơ bản về Thị trường chứng khoán rồi, nhưng liệu rằng những kiến thức đó đã gọi là đủ để bạn có thể bắt tay vào những phi vụ mua bán cổ phiếu?

Rất nhiều người thua lỗ nặng nề trên TTCK, nhưng họ không hề biết lý do tại sao họ lại bị thua lỗ, họ liền đổ tại cho việc "không may mắn", tại "lạm phát" quá cao, tại "giá vàng" tăng vọt, tại "Dow Jones" tự nhiên giảm điểm... Nói chung họ tìm đủ mọi lý do để bào chữa cho việc thua lỗ, nhưng liệu có mấy người tự nhận rằng "Là do bản thân mình kém cỏi" ? Việc tự nhận mình kém, hay nói cách khác là chấp nhận sự thất bại là rất cần thiết trên TTCK. Vì khi đó ta sẽ có ý thức đúng đắn về bản thân mình, nhận thấy được sai lầm của mình một cách khách quan nhất, rồi từ đó bạn mới có thể rút ra được kinh nghiệm để lần sau không mắc sai lầm đó nữa.

1.Xác định xu hướng của thị trường.

Sai lầm cơ bản nhất của những người mới bước chân vào TTCK (và cả những người mua bán thua lỗ lâu năm) là không xác định được xu hướng hiện tại của Thị trường. Họ sẵn sàng mang tiền của mình đi mua cổ phiếu mà không biết được liệu Thị trường có còn đi lên được nữa không, hay Thị trường đã kết thúc xu hướng đi xuống hay chưa. Việc này có thể được ví như 1 người bị lạc trong rừng phải biết tìm cách xác định phương hướng để tìm lối ra ( trèo lên cây, xem hướng mặt trời, đi ven dòng suối), nếu người đó chỉ biết cắm đầu  mà chạy thì khó có thể tìm được lối thoát, hậu quả là ngày càng bị mắc kẹt hơn.

Nhiều người mua cổ phiếu xong rồi lý luận: "tôi chỉ quan tâm đến cổ phiếu của tôi chứ cần gì quan tâm đến Vnindex". Đó là luận điệu sai lầm, vì chỉ khi Vnindex tăng thì cổ phiếu mới có khả năng tăng, khi Vnindex giảm thì khả năng lớn là cổ phiếu sẽ giảm theo.

TTCK có 3 xu hướng:
-Đi lên ( Uptrend ) : Mua là thắng - Thường bắt đầu bằng một tin tức tốt mang tầm Vĩ mô.
-Đi xuống ( Downtrend ) : Mua là thua - Thường bắt đầu bằng một tin tức xấu mang tầm Vĩ mô.
-Đi ngang ( Sideway ) : Rất khó mua bán, chỉ dành cho những người có kinh nghiệm - Không có tin Vĩ mô nào đủ sức tạo nên xu hướng Thị trường đi lên hoặc đi xuống.

Dưới đây là biểu đồ chỉ số Vnindex từ năm 2006 - 2011:


Như vậy những nhà đầu tư dài hạn chỉ việc ngồi chờ TTCK bước vào Uptrend để tham gia thị trường. Còn những nhà đầu cơ ngắn hạn "kém kiên nhẫn" hơn sẽ sẵn sàng tìm cơ hội kiếm lời ngay cả khi thị trường đang Sideway. Lưu ý là để Swing ( lướt sóng ) được khi thị trường Sideway thì cần phải có kinh nghiệm, lơ ngơ nhảy vào bừa bãi rất dễ bị "kẹp".

Công cụ PTKT tốt nhất để xác định Trend là EMA20:


2.Hỗ trợ và Kháng cự

-Ngưỡng hỗ trợ ( Support ): được xác định khi cổ phiếu đang trong xu hướng Downtrend, là nơi mà lực mua vào sẽ lớn hơn lực bán ra, cổ phiếu có xu hướng tăng giá trở lại.
-Ngưỡng kháng cự ( Resistance ): được xác định cổ phiếu đang trong xu hướng Uptrend, là nơi mà lực bán ra sẽ lớn hơn lực mua vào, cổ phiếu có xu hướng giảm giá trở lại.

Khi đọc bản tin nói về TTCK, bạn thường hay đọc được những câu kiểu như: Vnindex hôm nay đã giảm sát về ngưỡng hỗ trợ mạnh 380 điểm, dự báo lực bắt đáy sẽ mạnh lên ở các phiên tới, nhà đầu tư nên xem xét giải ngân một phần tiền mặt đề phòng giá cổ phiếu sẽ tăng trở lại.

Hoặc, hôm nay là một phiên giao dịch sôi động của toàn thị trường, thanh khoản tiếp tục được duy trì ở mức cao, tuy nhiên chỉ số Vnindex đã tiến sát mức kháng cự 460 điểm, nhà đầu tư có cổ phiếu nên xem xét chốt lời một phần tài khoản đề phòng giá cổ phiếu sẽ quay đầu giảm trong những phiên tới.

Vậy, làm thế nào để xác định được đâu là ngưỡng hỗ trợ và ngưỡng kháng cự? Rất đơn giản, đó là dựa vào đồ thị giá trong quá khứ.

Ví dụ: nhìn trên biểu đồ, ta nhận thấy đã 2 lần Vnindex từ xu hướng Downtrend chạm ngưỡng 380 điểm bật lại rồi chuyển thành xu hướng Uptrend. Ta gọi ngưỡng 380 điểm là ngưỡng hỗ trợ của Vnindex. Càng nhiều lần chỉ số Vnindex quay đầu tại ngưỡng hỗ trợ 380 thì ngưỡng hỗ trợ đó càng Mạnh ( có nghĩa là xác xuất đảo chiều càng lớn ).



3.Nguyên lý hoạt động của TTCK.

Các nhà đầu tư (đầu cơ) tham gia TTCK thường có suy nghĩ rất "sách vở" là Vnindex tăng - giảm là do quy luật cung - cầu chi phối. Theo đó, khi cầu > cung thì giá cổ phiếu tăng --> Vnindex tăng ; khi cầu < cung thì giá cổ phiếu giảm --> Vnindex giảm. Điều đó theo lý thuyết là đúng nhưng sự thực là quy luật cung - cầu trên TTCK được tạo ra hoàn toàn từ Niềm tinNỗi sợ hãi. Khi các NĐT có niềm tin lớn về sự tăng điểm của Vnindex thì họ sẽ sẵn sàng mua vào cổ phiếu --> các cổ phiếu tăng giá. Khi các NĐT trở nên sợ hãi lo lắng rằng Vnindex sẽ giảm điểm thì họ sẵn sàng bán ra cổ phiếu --> các cổ phiếu giảm giá.

Tóm lại là:
Vnindex tăng điểm khi Niềm tin > Nỗi sợ hãi.
Vnindex giảm điểm khi Niềm tin < Nỗi sợ hãi.

Vậy thì ai là người tạo ra Niềm tin và reo rắc nỗi sợ hãi cho các NĐT tội nghiệp như chúng ta? Liệu có phải là Báo chí với những thông tin Vi mô-Vĩ mô, Ngân hàng Nhà nước với những chính sách tín dụng-lãi suất, hay do ông Dow Jones cách ta nửa vòng Trái đất xanh-đỏ thất thường...? Không phải, những thứ kể trên chỉ là công cụ để tác động đến tâm lý của NĐT mà thôi.

Trước tiên các bạn hãy tìm hiểu thành phần của một sòng bạc Casino thông thường:
-Nhà cái: Ông chủ - là người có quyền hành to nhất chi phối hoạt động của Casino.
-Người chia bài: Cánh tay phải của Nhà cái, là người trực tiếp chia bài cho người chơi + thu tiền về cho Nhà cái.
-Chân gỗ: Cánh tay trái của Nhà cái, là người tham gia cùng người chơi, nhiệm vụ tung thông tin hỏa mù, lôi kéo người chơi theo ý muốn của Nhà cái.
-Bảo kê: Bảo vệ lợi ích của Nhà cái.
-Người chơi: Tham gia vào Casino, kiếm tiền từ người chơi khác (nếu giỏi), hoặc bị Nhà cái lột hết tiền.

Bây giờ hãy thay thế các thành phần của Casino bằng các thành phần tham gia vào TTCK, kết quả là:
-Nhà cái: là người có quyền hành to nhất chi phối hoạt động của TTCK.
-Người chia bài: Cánh tay phải của Nhà cái - các Công ty Chứng khoán, quản lý tài khoản của NĐT, ăn % từ giao dịch của NĐT.
-Chân gỗ: Cánh tay trái của Nhà cái - Các tờ báo, Media, Brokers với nhiệm vụ đăng tải thông tin tác động lên tâm lý của NĐT.
-Bảo kê: UBCK, hình thức là bảo vệ quyền lợi NĐT nhưng bản chất là bảo vệ quyền lợi của Nhà cái, thể hiện ở cách điều hành trì trệ làm khó cho NĐT ( T+2 mãi không có, cho công ty tăng vốn bừa bãi,... )
-Người chơi: tham gia vào TTCK, kiếm tiền từ các NĐT khác, hoặc bị Nhà cái lột hết tiền.

Kết luận: Nhà cái là người reo rắc Niềm tin và Nỗi sợ hãi cho NĐT, làm cho Vnindex đi lên hoặc đi xuống theo ý đồ của Nhà cái, hòng kiếm tiền từ túi của các NĐT.

Hết phần 1, mời bạn đọc tiếp phần 2 tại Đây.

Thứ Sáu, 19 tháng 8, 2011

Giới thiệu công cụ Phân tích kỹ thuật Amibroker.

Đầu tiên các bạn tải về và cài đặt chương trình Amibroker + Metakit : Tại đây 

1.Cấu hình tham số phần mềm Metakit

Bước 1:Muốn sử dụng chương trình Metakit các bạn phải đăng ký tài khoản ( miễn phí ) tại : stockbiz.vn
Bước 2:Sau khi đăng ký thành công bạn tiến hành đăng nhập vào chương trình Metakit.


Bước 3: Thiết lập các tham số giống như hình dưới đây.


2.Cập nhật dữ liệu cho Amibroker

Thực hiện theo các bước sau:
-       Tạo cơ sở dữ liệu EOD:.
Chọn File->New->Database


Trong mục Database folder, chọn thư mục bạn muốn lưu cơ sở dữ liệu EOD.
Chọn Create để tạo cơ sở dữ liệu


Trong mục Data Source, chọn Metastock data plugin
Trong mục Base time interval, chọn End Of Day
Click Configure để cấu hình cơ sở dữ liệu
Click Add folder để chọn các thư mục dữ liệu EOD do phần mềm Stockbiz MetaKit tải về (Bạn thực hiện thao tác Add folder nhiều lần để thêm các thư mục ứng với dữ liệu EOD do MetaKit tải về)
Click Retrieve symbols để nhận dạng các mã CK trong các thư mục dữ liệu. Nếu bạn không thực hiện thao tác này bạn sẽ không thấy được các mã chứng khoán trong cơ sở dữ liệu vừa tạo.


Click OK để lưu cấu hình
Click OK lần nữa để kết thúc quá trình tạo cơ sở dữ liệu

-       Tạo cơ sở dữ liệu Intraday:. ( Chỉ sử dụng để tra cứu giá cổ phiếu trong thời gian giao dịch, nếu không cần thiết bạn có thể bỏ qua bước này )

    Do AmiBroker chỉ xử lý tốt các thư mục giá Intraday (do MetaKit tải về) có không quá 255 mã chứng khoán, cho nên để cung cấp dữ liệu real-time cho AmiBroker, trong mục Thiết lập cần phải bật tùy chọn Phân các mã CK vào các thư mục con theo vần A-Z (khi đó các dữ liệu tải về của các mã CK sẽ được tổ chức thành các thư mục theo vần, mỗi thư mục sẽ có không có quá nhiều mã, giúp AmiBroker đọc dữ liệu chính xác hơn).
Chọn File->New->Database
Trong mục Database folder, chọn thư mục bạn muốn lưu cơ sở dữ liệu Intraday.
Chọn Create để tạo cơ sở dữ liệu


Trong mục Data Source, chọn Metastock data plugin
Trong mục Base time interval, chọn Tick
Click Configure để cấu hình cơ sở dữ liệu
Click Add folder để chọn các thư mục dữ liệu Intraday do phần mềm Stockbiz MetaKit tải về (Bạn thực hiện thao tác Add folder nhiều lần để thêm các thư mục ứng với dữ liệu Intraday do MetaKit tải về)
Click Retrieve symbols để nhận dạng các mã CK trong các thư mục dữ liệu. Nếu bạn không thực hiện thao tác này bạn sẽ không thấy được các mã chứng khoán trong cơ sở dữ liệu vừa tạo.
Bật tùy chọn Intraday refresh để biểu đồ AmiBroker tự động refresh khi có dữ liệu thay đổi.


Click OK để lưu cấu hình
Click OK lần nữa để kết thúc quá trình tạo cơ sở dữ liệu

Sau khi tạo xong 2 cơ sở dữ liệu, về sau khi muốn xem biểu đồ EOD, mở cơ sở dữ liệu EOD, ngược lại muốn xem biểu đồ Intraday, mở cơ sở dữ liệu Intraday.
Trong thời gian giao dịch, nếu các mục Tự động cập nhật dữ liệu được bật (Thiết lập trong mục Cấu hình tham số phần mềm), biểu đồ EOD cũng như Intraday của các Index hoặc mã CK được mở trong AmiBroker sẽ liên tục được cập nhật (Với biểu đồ EOD, chỉ có điểm cuối cùng trên biểu đồ tương ứng với dữ liệu ngày hôm nay thay đổi).

3.Thực hiện cập nhật dữ liệu hàng ngày.
Sau khi hoàn thành 2 phần trên tức là bạn đã hoàn thành đầy đủ các thao tác cần thiết để cập nhật dữ liệu cho Amibroker, những thao tác ở phần 2 chỉ phải thực hiện 1 lần đầu tiên.

Giờ đây để cập nhật dữ liệu, bạn chỉ cần đăng nhập vào Metakit, rồi ấn "Cập nhật" , rồi đợi quá trình cập nhật hoàn tất là xong.

4.Sử dụng Amibroker.
-Cách 1: bạn có thể sử dụng Google để tham khảo cách thiết lập các chỉ báo trong Amibroker.
-Cách 2: 

Download 2 cái này về : http://www.mediafire.com/?rl6i812z2bbkz6l

và http://www.mediafire.com/?2m4rx5knk5sbx1i

1. Uninstall Amibroker đi. ( nếu đã cài sẵn )
2. Giải nén, copy cả folder có tên Amibroker --> paste vào C: --> Program Files
3. Giải nén, copy cả folder có tên MetaStock Data --> paste vào C:
4. Vào C: --> Program Files --> Amibroker --> chạy file Broker.exe

Để update dữ liệu hàng ngày các bạn vẫn phải dùng Metakit nhé.